Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, việc duy trì và tăng cường các nỗ lực hợp tác toàn cầu là vô cùng cần thiết. Chỉ có thông qua sự hợp tác chặt chẽ và toàn diện, chúng ta mới có thể đối phó hiệu quả với các thách thức. Việt Nam, với vị trí địa lý đặc thù và sự phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, dễ bị tổn thương bởi tác động của biến đổi khí hậu. Do đó, việc tham gia tích cực vào các nỗ lực hợp tác quốc tế không chỉ là trách nhiệm mà còn là cơ hội để chúng ta học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm và tìm kiếm sự hỗ trợ từ cộng đồng quốc tế.
Thực hiện các hiệp định và thoả thuận quốc tế
Việt Nam đã chủ động, tích cực, tham gia ký kết nhiều điều ước, thoả thuận quốc tế về ứng phó với BĐKH, hợp tác quản lý, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường, qua đó khẳng định vị thế, vai trò ngày càng cao của Việt Nam trong giải quyết các vấn đề toàn cầu, nhất là trong ứng phó BĐKH.
Chúng ta đã và đang tiếp tục thực hiện các Điều ước quốc tế đã ký trước đây như UNFCCC, Nghị định thư Kyoto, Công ước Viên về bảo vệ tầng ô-dôn, Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-dôn, Nghị định thư Montreal,… Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã tham gia một số điều ước quốc tế, gồm: Bản Sửa đổi bổ sung Doha của Nghị định thư Kyoto được thông qua ngày 08/12/2012; Thoả thuận Paris về BĐKH năm 2015 và; Bản sửa đổi, bổ sung Kigali của Nghị định thư Montreal,… Tại COP 26, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã đưa ra cam kết Việt Nam sẽ đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Cam kết này đã gửi đến cộng đồng quốc tế một tín hiệu rõ ràng về định hướng và quyết tâm của Việt Nam hướng tới phát triển một nền kinh tế carbon thấp và bền vững.
Tính đến cuối năm 2018, Việt Nam đã có quan hệ hợp tác song phương với 77 quốc gia và vùng lãnh thổ, hợp tác đa phương với 63 tổ chức quốc tế, các khuôn khổ vùng/khu vực và các diễn đàn quốc tế về TN&MT. Từ 2010 đến nay, đã ký kết 43 điều ước quốc tế song phương về BĐKH với các đối tác phát triển như Đan Mạch, Hà Lan, Nhật Bản,… Bên cạnh đó, nhiều Biên bản ghi nhớ (MOU) trong lĩnh vực BĐKH cũng được ký kết giữa các bộ, ngành địa phương, viện nghiên cứu, cơ quan trực thuộc các Bộ, ngành, địa phương, trường đại học,… của Việt Nam với các tổ chức quốc tế và các cơ quan cùng cấp của một số quốc gia trên thế giới. Về hỗ trợ quốc tế: Chương trình Hỗ trợ ứng phó với BĐKH (SP-RCC) đã huy động được sự hỗ trợ của Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), Cơ quan Phát triển Pháp (AfD), Cơ quan Phát triển Quốc tế Canada (CIDA), Ngân hàng Thế giới (WB), Bộ Ngoại giao và Thương mại Úc (DFAT), Ngân hàng Xuất nhập khẩu Hàn Quốc (K-Eximbank). Mục tiêu chính của Chương trình là nhằm hỗ trợ xây dựng chính sách về ứng phó với BĐKH tại Việt Nam và huy động nguồn lực cho ngân sách nhà nước.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, không một quốc gia nào có thể tự mình đối phó hoàn toàn với BĐKH. Hợp tác quốc tế trở thành yếu tố then chốt để chia sẻ kiến thức, công nghệ, và tài nguyên nhằm giảm thiểu tác động của BĐKH. Các hiệp định và thỏa thuận quốc tế. Hiệp định Paris (2015) về BĐKH đã tạo ra nền tảng cho sự hợp tác này, cho phép các quốc gia cùng cam kết và hành động vì một tương lai bền vững. Vai trò của các tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc (UN), Ngân hàng Thế giới (WB), và các tổ chức phi chính phủ cũng không thể thiếu, khi họ đóng vai trò điều phối, hỗ trợ tài chính, và nâng cao nhận thức toàn cầu. Sự hợp tác toàn diện và đồng lòng của cộng đồng quốc tế là chìa khóa để chúng ta có thể vượt qua thách thức này và bảo vệ hành tinh cho các thế hệ tương lai. Hiệp định Paris về BĐKH (2015) đã có ảnh hưởng sâu rộng đến chính sách và hành động quốc gia. Nhiều quốc gia đã tăng cường các biện pháp bảo vệ môi trường, đầu tư vào năng lượng tái tạo, và thúc đẩy các chính sách giảm phát thải. Hiệp định này đã tạo động lực cho sự thay đổi, không chỉ ở cấp độ chính phủ mà còn trong khu vực tư nhân và cộng đồng dân cư. Nghị định thư Kyoto được thông qua vào năm 1997, đánh giá hiệu quả của Nghị định thư Kyoto cho thấy nó đã đạt được một số thành công trong việc giảm phát thải nhà kính, nhưng còn nhiều hạn chế. Một số quốc gia không đạt được mục tiêu của mình và sự tham gia không đồng đều của các quốc gia phát triển đã làm giảm hiệu quả tổng thể của nghị định.
Ngoài các hiệp định toàn cầu, nhiều thỏa thuận khu vực và song phương đã được thiết lập để đối phó với BĐKH. Ví dụ, Liên minh châu Âu đã thiết lập Hệ thống Giao dịch Khí thải của EU (EU ETS) để giảm phát thải khí nhà kính trong khu vực. Các thỏa thuận song phương như Hiệp định Đối tác Khí hậu và Năng lượng Giữa Mỹ và Trung Quốc cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hợp tác về công nghệ sạch và giảm thiểu khí thải.
Những thỏa thuận này đã có tác động tích cực đến nỗ lực chống BĐKH bằng cách thúc đẩy các quốc gia chia sẻ công nghệ, kiến thức và tài nguyên, từ đó nâng cao hiệu quả của các biện pháp bảo vệ môi trường. Chúng cũng tạo ra cơ hội cho các quốc gia hợp tác và học hỏi lẫn nhau, đồng thời tạo áp lực để các quốc gia khác tham gia vào nỗ lực toàn cầu.
Các giải pháp tăng cường hội nhập và hợp tác quốc tế
Liên quan đến nhiệm vụ về HTQT, TS. Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục BĐKH chia sẻ, Cục đã tham mưu chuẩn bị nội dung phục vụ Lãnh đạo Chính phủ, Lãnh đạo Bộ tiếp và làm việc với nhiều đối tác quốc tế hợp tác với Việt Nam về ứng phó với BĐKH và chuyển đổi năng lượng công bằng. Phối hợp với Nhóm đối tác quốc tế (IPG), Liên minh tài chính Glasgow vì mục tiêu phát thải ròng bằng “0” (GFANZ) hoàn thiện Khung giám sát, đánh giá và đề xuất dự án ưu tiên thực hiện JETP năm 2024. Xây dựng dự thảo đề án Việt Nam tham dự Hội nghị COP29 tại Baku, Cộng hòa Azerbaijan và tham mưu trình Bộ có văn bản gửi xin ý kiến các Bộ có liên quan. Trao đổi, thảo luận với phía Hoa Kỳ về triển khai hợp tác giữa Việt Nam – Hoa Kỳ trong khuôn khổ Nhóm công tác Việt Nam – Hoa Kỳ về BĐKH. Tổ chức thành công cuộc họp Nhóm công tác chung lần thứ nhất trong khuôn khổ Thỏa thuận khung hợp tác về BĐKH giữa Việt Nam và Hàn Quốc để thảo luận về hoạt động hợp tác ưu tiên trong thời gian tới và định hướng triển khai hoạt động trao đổi tín chỉ các-bon giữa Việt Nam và Hàn Quốc theo Điều 6.2 của Thỏa thuận Paris về BĐKH.
Cục tham mưu trình Bộ trưởng thành lập Nhóm làm việc đàm phán Thỏa thuận thí điểm thực hiện theo Điều 6 Thỏa thuận Paris giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước Cộng hòa Singapore tại Quyết định số 1031/QĐ-BTNMT ngày 16/4/2024 của Bộ trưởng Bộ TN&MT. Tiếp tục làm việc, trao đổi với phía Nhật Bản để chuẩn bị tốt cho cuộc họp Ủy ban hỗn hợp thực hiện Cơ chế tín chỉ chung hợp tác giữa Việt Nam và Nhật Bản. Tích cực triển khai các hoạt động trong khuôn khổ Phân ban Việt Nam trong Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam – Hà Lan về thích ứng với BĐKH và quản lý nước; tham mưu cho Bộ xin ý kiến các cơ quan liên quan về việc tham gia Ban Quốc tế về đồng bằng và các khu vực ven biển (IPDC). Cục chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng Thông báo quốc gia lần thứ Tư và Báo cáo Minh bạch hai năm một lần lần thứ nhất của Việt Nam gửi Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH.
Hiện nay, Việt Nam đang phối hợp với Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) tại Việt Nam xây dựng kế hoạch thực hiện giai đoạn 2 Dự án nghiên cứu các tác động kinh tế – xã hội của BĐKH ở Việt Nam và các chiến lược thích ứng (GEMMES Việt Nam); phối hợp với Ngân hàng Thế giới xây dựng đề xuất dự án “Quản lý bền vững các chất được kiểm soát theo Nghị định thư Montreal của Việt Nam”; phối hợp với Chương trình Phát triển Liên hợp quốc xây dựng đề xuất dự án “Hỗ trợ triển khai các giải pháp tích hợp hướng tới phát thải ròng bằng “0” dựa vào tự nhiên (NZNP) ở Việt Nam” để vận động tài trợ của chu kỳ GEF-8; phối hợp với Cơ quan Phát triển quốc tế Hàn Quốc xây dựng đề xuất dự án “Tăng cường năng lực hoàn thiện khung chính sách về thích ứng với BĐKH và thúc đẩy khả năng chống chịu khí hậu của Việt Nam”.
Ứng phó với BĐKH là thách thức không có đường biên giới nên chỉ có thể ứng phó thành công thông qua cách tiếp cận toàn cầu, toàn dân và đề cao chủ nghĩa đa phương. Đây là một quá trình lâu dài, cần có lộ trình, ưu tiên, bước đi phù hợp, hiệu quả; cần trách nhiệm chung nhưng tính tới điều kiện khác biệt giữa các nước; cần bảo đảm công bằng, hợp lý giữa chuyển đổi năng lượng sạch và an ninh năng lượng toàn cầu, giữa nhu cầu phát triển và chuyển đổi xanh.
Đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ trở thành lĩnh vực hợp tác, là giải pháp đột phá, căn cốt, dẫn dắt quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế từ nâu sang xanh, tuần hoàn, bền vững. HTQT phối hợp, phát triển thiết lập các cơ chế hợp tác bao trùm, toàn diện, bảo đảm sự tham gia hiệu quả của tất cả các bên, phối hợp nhịp nhàng trong phát triển và ứng dụng công nghệ cho chuyển đổi xanh, chuyển đổi số. Các nước phát triển, với ưu thế về vốn và công nghệ, cần đi đầu sáng chế các sản phẩm, nguyên liệu, năng lượng xanh, thân thiện với môi trường. Các nước đang phát triển, với thế mạnh về quy mô thị trường, lao động, tài nguyên đa dạng cần tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng xanh, nhân rộng quá trình chuyển các mô hình, sản phẩm, năng lượng… từ nâu sang xanh và bền vững. Thúc đẩy tài chính ưu đãi cho khí hậu để làm đòn bẩy, giúp mở khoá các mục tiêu khí hậu toàn cầu. Các nước phát triển cần đi đầu thực hiện các cam kết tài chính cho khí hậu, trong đó có mục tiêu huy động 100 tỷ USD, tăng gấp đôi tài chính cho thích ứng năm 2025 cũng như đóng góp vào Quỹ Khí hậu Xanh và Quỹ Tổn thất và Thiệt hại
Cuộc chiến chống BĐKH không chỉ và không thể là nỗ lực đơn lẻ của một quốc gia mà đòi hỏi sự chuyển biến về nhận thức, tư duy, cách làm, nhất là sự xây dựng chính sách và sự vào cuộc quyết liệt, đồng bộ của mọi chủ thể. Trong nỗ lực chung đó, Việt Nam tái khẳng định cam kết mạnh mẽ, quyết tâm đưa phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Cam kết đó đã được cụ thể hóa bằng các hành động quyết liệt với các quy hoạch, chiến lược và các nhiệm vụ tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững, xây dựng thể chế và đào tạo nguồn nhân lực, quản lý thông minh,… Là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức to lớn từ các vấn đề toàn cầu. Những năm qua, chúng ta đã nỗ lực trong thực hiện SDGs và MDGs của Liên hợp quốc, đạt được nhiều thành tựu đáng kể, góp phần cùng cộng đồng quốc tế ứng phó với các vấn đề toàn cầu. Hiện nay, căn cứ vào SDGs của Liên hợp quốc đưa ra năm 2015 và tình hình thực tế của đất nước, Việt Nam đang tiếp tục thực thi, cập nhật lộ trình thực hiện SDGs Việt Nam đến năm 2030. Tiếp tục phối hợp cùng các nước thúc đẩy sự quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với những tác động của các vấn đề toàn cầu đối với thế giới nói chung, với các nước đang phát triển nói riêng, trong đó có Việt Nam, qua đó tích cực vận động các nguồn lực từ các tổ chức quốc tế, các quốc gia phát triển, các nước đối tác, các tổ chức phi chính phủ,… để giúp Việt Nam ứng phó hiệu quả, tập trung ứng phó BĐKH, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững.
Nguồn: Trung Hiếu
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 15 (Kỳ 1 tháng 8) năm 2024
Link bài viết: https://tainguyenvamoitruong.vn/thuc-hien-cac-hiep-dinh-va-thoa-thuan-quoc-te-ve-bien-doi-khi-hau-cid118594.html