Nâng cao hiệu quả phòng chống, ứng phó với biến đổi khí hậu và thiên tai, bão lũ hiện nay

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH), thời tiết ngày càng diễn biến phức tạp khó lường, việc chủ động phòng, chống và giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra càng trở nên cấp thiết. Do đó, thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta, nhất là Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng các tỉnh, thành phố và lực lượng vũ trang nhân dân đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng, triển khai đồng bộ các giải pháp và phương án phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ, vận dụng tốt phương châm “4 tại chỗ,” đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản của Nhân dân.

Những năm gần đây, thiên tai, bão lũ tiếp tục diễn biến bất thường, khó dự báo. Sau các đợt nắng nóng gay gắt, hạn hán, xâm nhập mặn kéo dài, thời gian gần đây, thiên tai diễn ra ngày càng khốc liệt, dữ dội hơn. Mùa mưa bão năm 2022 miền Trung hứng chịu nhiều thiệt hại. Năm 2024, mưa lũ vừa xảy ra tháng 9/2024 ở các tỉnh miền Bắc, cơn bão số 3 mang tên Yagi, theo báo cáo của các tỉnh có cơn bão đi qua, ước tính hàng trăm năm nay mới có một trận bão mạnh gió giật cấp 14, 15; gây nên mưa lũ tràn ngập nhà cửa của đồng bào thiểu số vùng cao, gây thiệt hại lớn về tài sản, đã có hàng 100 người chết, nơi từ trước đến nay chưa từng biết lũ là gì. Cơn lũ kinh hoàng đã quét qua các tỉnh Yên Bái, Lào Cai vùi lấp, cuốn trôi nhiều tài sản, nhà cửa của nhân dân.

Quan điểm, chủ trương và tư tưởng chỉ đạo phòng chống, ứng phó với biến đổi khí hậu – thiên tai, bão lũ

Phòng chống, ứng phó với BĐKH hay còn gọi là phòng chống thiên tai, bão, lũ vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững, bảo vệ tài nguyên và môi trường phải được thể hiện trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển KT-XH của từng ngành và từng địa phương. Khắc phục tư tưởng chỉ chú trọng phát triển kinh tế mà coi nhẹ nhiệm vụ ứng phó với BĐKH; bảo vệ TN&BVMT.

Nghị quyết số 24-NQ/TW Hội nghị Trung ương 7 (khóa XI) về chủ động ứng phó với BĐKH, Đảng ta chỉ rõ: (1). Chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý TN&BVMT là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn, quan hệ, tác động qua lại, cùng quyết định sự phát triển bền vững của đất nước; là cơ sở, tiền đề cho hoạch định đường lối, chính sách phát triển KT-XH, bảo đảm quốc phòng, an ninh và an sinh xã hội. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả hệ thống chính trị; là trách nhiệm và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự tham gia, giám sát của toàn xã hội. (2). Tích cực, chủ động ứng phó với BĐKH; tăng cường quản lý TN&BVMT phải trên cơ sở phương thức quản lý tổng hợp và thống nhất, liên ngành, liên vùng. Vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa bảo đảm lợi ích lâu dài, trong đó lợi ích lâu dài là cơ bản. Vừa bảo đảm toàn diện, vừa phải có trọng tâm, trọng điểm; có bước đi phù hợp trong từng giai đoạn; dựa vào nội lực là chính, đồng thời phát huy hiệu quả nguồn lực hỗ trợ và kinh nghiệm quốc tế.

BĐKH và ứng phó với BĐKH, phòng chống thiên ta, bão lũ phải được đặt trong mối quan hệ toàn cầu; mở rộng quan hệ đối ngoại, “tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế trong việc đối phó với những thách thức BĐKH;…”1; đẩy mạnh hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế trong vấn đề ứng phó với BĐKH, thảm họa thiên nhiên, với các chương trình, kế hoạch và cơ chế phù hợp.

Thủ tướng Chính phủ đã có nhiều chỉ đạo Bộ TN&MT, Bộ NN&PTNT, các bộ, ngành có liên quan, đặc biệt là các địa phương theo dõi sát tình hình, chủ động chỉ đạo, tổ chức triển khai công tác phòng, chống thiên tai từ sớm, từ xa và chủ động khắc phục ngay khi xảy ra, góp phần hạn chế thiệt hại do thiên tai gây ra.

Tuy nhiên, bão, lũ vẫn gây ra thiệt hại rất lớn về người, tài sản của nhân dân và công trình cơ sở hạ tầng, ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất kinh doanh và đời sống của người dân. Theo thống kê của Bộ NN&PTNT, từ đầu năm 2024 đến nay, thiên tai làm 104 người chết và mất tích (phần lớn người chết và mất tích là do sạt lở đất hoặc bị lũ cuốn), thiệt hại về vật chất ước tính khoảng hơn 2.000 tỷ đồng.

Theo cảnh báo của Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia, hiện tượng La Nina sẽ tác động đến nước ta từ tháng 8/2024, nguy cơ xảy ra bão mạnh, mưa lớn, lũ lụt, lũ quét, sạt lở đất, mất an toàn hồ đập là rất cao, đe dọa nghiêm trọng đến sản xuất, sinh hoạt, tính mạng và tài sản của người dân.

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện số 75 ngày 4/8 về việc chủ động phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai trong thời gian tới, UBND các tỉnh, thành phố khu vực xảy ra bão, lũ yêu cầu các cơ quan, đơn vị, địa phương thực hiện nghiêm chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Công điện của Bộ NN&PTNT về việc tập trung biện pháp giảm thiểu thiệt hại về người và chủ động ứng phó với mưa lũ, sạt lở đất trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh.

Đặc biệt, chủ động hơn nữa để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai công tác phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai trên địa bàn, cơ quan, đơn vị theo phương châm “4 tại chỗ” với tinh thần chủ động, kịp thời, quyết liệt nhất để đảm bảo an toàn tính mạng, giảm thiểu thiệt hại về tài sản của nhân dân và Nhà nước.

Thường xuyên rà soát, hoàn thiện phương án ứng phó đối với từng loại hình thiên tai có thể xảy ra trên địa bàn, nhất là phương án ứng phó bão, lũ lụt, sạt lở đất, lũ quét; xác định các khu vực trọng điểm xung yếu để chủ động xây dựng kịch bản bố trí lực lượng, phương tiện sẵn sàng ứng phó, cứu hộ cứu nạn khi có tình huống xảy ra.

Chỉ đạo triển khai phương án phòng, chống thiên tai trong mùa mưa bão; tổ chức giám sát, kiểm tra, đôn đốc công tác chuẩn bị phòng, chống thiên tai, cứu hộ cứu nạn trước mùa mưa lũ và trước khi xảy ra bão, lũ theo quy định.

Tổ chức rà soát, xác định các khu vực có nguy hiểm, nhất là các khu vực sườn dốc có nguy cơ xảy ra sạt lở đất, lũ quét, khu vực ngập sâu ven sông, suối để chủ động tổ chức di dời người, tài sản ra khỏi khu vực nguy hiểm, đối với những nơi chưa có điều kiện để di dời ngay phải có phương án chủ động sơ tán khi có tình huống thiên tai để bảo đảm an toàn tính mạng cho người dân.

Chủ động bố trí ngân sách địa phương để triển khai công tác phòng, chống, khắc phục kịp thời hậu quả thiên tai theo quy định với phương châm tuyệt đối không để người dân nào thiếu chỗ ở, thiếu đói hoặc các vật dụng thiết yếu khác, không để xảy ra bệnh dịch, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng sau bão, mưa lũ, ngập lụt, không để ảnh hưởng lớn đến việc học hành của học sinh.

Phương châm “4 tại chỗ” – chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại chỗ, phương tiện tại chỗ và hậu cần tại chỗ – là nền tảng trong công tác phòng chống thiên tai, thảm họa, cứu hộ, cứu nạn. “Phòng, chống thiên tai, thảm họa, cứu hộ – cứu nạn là nhiệm vụ chính trị quan trọng, là ‘nhiệm vụ chiến đấu trong thời bình’. Trên tinh thần đó, các cấp ủy, chính quyền các tỉnh, thành phố đã quán triệt và thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị từ cấp trên, đảm bảo các lực lượng của các tỉnh thành phố luôn sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống.

Nâng cao hiệu quả phòng chống với biến đổi khí hậu, thiên tai, bão lũ

Trước hết, tăng cường, đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho toàn dân; hình thành ý thức chủ động ứng phó với BĐKH, sử dụng tiết kiệm TN&BVMT. Đa dạng hóa hình thức, đổi mới nội dung, xác định các đối tượng ưu tiên tuyên truyền, giáo dục; đưa nội dung ứng phó với BĐKH, quản lý TN&BVMT vào chương trình đào tạo các cấp học phổ thông, đại học, đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý. Phổ biến kinh nghiệm, xây dựng năng lực, kỹ năng phòng tránh thiên tai, thích ứng với BĐKH cho mọi người dân, doanh nghiệp và toàn xã hội.

Hai là, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, tạo dư luận xã hội; lên án và thống nhất nhận thức về việc phải xử lý nghiêm các hành vi sử dụng lãng phí tài nguyên, đốt phá rừng, gây ô nhiễm môi trường, săn bắt, tiêu thụ động vật hoang dã. Nâng cao ý thức trách nhiệm về BVMT của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành, doanh nghiệp và mọi người dân. Xây dựng tiêu chí, chuẩn mực về BVMT trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cán bộ, đảng viên. Hình thành các thiết chế văn hóa, đạo đức môi trường trong xã hội. Thực hiện đánh giá, phân hạng về môi trường đối với các ngành, địa phương.

Ba là, tăng cường quản lý nhà nước về ứng phó với BĐKH, quản lý tài nguyên, BVMT. Chú trọng xây dựng và hoàn thiện pháp luật về ứng phó với BĐKH, quản lý tài nguyên, BVMT và các lĩnh vực có liên quan như đầu tư, thuế, xử lý vi phạm hành chính, dân sự… theo hướng bổ sung, kết hợp khắc phục các chồng chéo, xung đột pháp luật nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho việc thực hiện các nhiệm vụ.

Hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp, xung đột trong ứng phó với BĐKH, khai thác, sử dụng TN&BVMT. Sửa đổi, bổ sung các chế tài hành chính, kinh tế, hình sự… về quản lý TN&BVMT, bảo đảm đủ sức răn đe. Đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật. Nghiên cứu kiện toàn tổ chức bộ máy và hoàn thiện cơ chế, chính sách huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực theo hướng tổng hợp, thống nhất, tập trung đầu mối, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, khắc phục triệt để tình trạng phân tán, chồng chéo trong quản lý nhà nước về ứng phó với BĐKH, quản lý TN&BVMT. Xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành, liên vùng; cơ chế, chính sách khuyến khích xã hội hoá; cơ chế để nhân dân giám sát có hiệu quả việc quản lý khai thác tài nguyên, BVMT và ứng phó với BĐKH.

Bốn là, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong ứng phó với BĐKH, quản lý TN&BVMT. Chú trọng nghiên cứu khoa học về ứng phó với BĐKH, quản lý TN&BVMT. Sớm hình thành một số chuyên ngành khoa học mũi nhọn như năng lượng tái tạo, tái chế chất thải, vật liệu mới, thiên văn…Thúc đẩy đổi mới công nghệ sản xuất theo hướng thân thiện với môi trường, tiết kiệm năng lượng, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, ít chất thải và các-bon thấp; nghiên cứu phát triển và tiếp nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến cho ứng phó với BĐKH, quản lý TN&BVMT, trong đó chú trọng đến các giải pháp phi công trình. Tăng cường ứng dụng công nghệ viễn thám, công nghệ mới, tiên tiến trên nền tảng công nghệ thông tin trong dự báo, cảnh báo, điều tra, đánh giá, ứng phó với BĐKH, quản lý TN&BVMT. Xây dựng và thực hiện chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp nhà nước phục vụ thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp chủ yếu về ứng phó với BĐKH, quản lý TN&BVMT.

Năm là, đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính, tăng cường và đa dạng hóa nguồn lực cho ứng phó với BĐKH, quản lý TN&BVMT. Kết hợp tăng chi từ ngân sách với đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, nhất là các nguồn vốn ưu đãi cho ứng phó với BĐKH, quản lý TN&BVMT. Phát huy vai trò, trách nhiệm của bộ quản lý chuyên ngành trong việc huy động, quản lý, sử dụng nguồn lực. Hằng năm ưu tiên bố trí ngân sách phù hợp cho công tác điều tra cơ bản, xử lý ô nhiễm môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học và ứng phó với BĐKH. Ưu tiên bố trí kinh phí thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường sông Cầu, sông Nhuệ – sông Đáy, sông Đồng Nai. Bảo đảm sử dụng minh bạch, đúng mục đích và hiệu quả nguồn vốn ODA và các nguồn hỗ trợ quốc tế khác.

Thực hiện chính sách khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân tham gia hoạt động ứng phó với BĐKH, quản lý TN&BVMT; hỗ trợ người dân trồng và bảo vệ rừng, nhất là rừng đầu nguồn, rừng ngập mặn ven biển, người dân bị ảnh hưởng do khai thác tài nguyên thái quá.

Sáu là, coi trọng hợp tác, hội nhập quốc tế về ứng phó với BĐKH, quản lý TN&BVMT. Chủ động hợp tác, hội nhập quốc tế; coi trọng việc tham gia và thực hiện các Điều ước quốc tế. Tăng cường trao đổi thông tin, kinh nghiệm, đối thoại chính sách với các nước về ứng phó với BĐKH, quản lý tài nguyên, BVMT và trong việc thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ. Đẩy mạnh hợp tác với các nước có liên quan, các tổ chức và các diễn đàn quốc tế để bảo vệ các nguồn nước xuyên biên giới, tiếp cận công nghệ mới và huy động nguồn lực cho giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với BĐKH và BVMT.

Các cấp ủy, tổ chức đảng tổ chức nghiên cứu, quán triệt và xây dựng kế hoạch thực hiện các chỉ thị nghị quyết phù hợp với tình hình của ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị; nâng cao hiệu quả phòng chống ứng phó với BĐKH, thiên tai, bão lũ hiện nay.

Đại tá, PGS, TS. KHQS TRẦN NAM CHUÂN
Nguyên Cán bộ Viện Chiến lược Bộ Quốc phòng
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 19 (Kỳ 1 tháng 10) năm 2024

Link bài viết tại đây.