Mô hình liên kết chuỗi giá trị tôm hùm tại Đắk Lắk: Lời giải cho bài toán phát triển bền vững

TN&MTTrong nhiều năm qua, nghề nuôi tôm hùm thương phẩm đã trở thành sinh kế chủ lực, mang lại giá trị kinh tế cao cho hàng ngàn hộ dân ven biển Nam Trung bộ, với tỉnh Phú Yên (cũ) và Khánh Hòa được mệnh danh là “thủ phủ” của nghề này, chiếm trên 95% sản lượng tôm hùm của cả nước. Tuy nhiên, đằng sau những con số tăng trưởng ấn tượng đó là những thách thức không nhỏ đang đặt ra hiện nay đó là, phát triển tự phát, thiếu bền vững, sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, rủi ro về dịch bệnh và đặc biệt đang phụ thuộc lớn vào thị trường Trung Quốc với những yêu cầu ngày càng khắt khe về truy xuất nguồn gốc.

Trước bối cảnh đó, mô hình “Xây dựng mô hình liên kết trong sản xuất, tiêu thụ tôm hùm” do Viện Kinh tế và Quy hoạch Thủy sản triển khai ở 2 địa phương là Đắk Lắk và Khánh Hòa được xem là một bước đi chiến lược nhằm tái cấu trúc ngành hàng này.

Mô hình liên kết chuỗi giá trị tôm hùm được Viện Kinh tế và Quy hoạch Thủy sản triển khai tại Đắk Lắk và Khánh Hòa, hướng tới sản xuất bền vững và kiểm soát chất lượng đầu vào, đầu ra

Để hiểu rõ giá trị của mô hình mới, trước hết cần nhìn nhận những vấn đề mà ngành nuôi tôm hùm ở Đắk Lắk và Khánh Hòa đã đối mặt trong thời gian qua đó là:

Thứ nhất, từ trước đến nay, nguời dân nuôi tôm hùm đã rất quen câu nói “mạnh ai nấy làm” sản xuất quy mô nhỏ, hộ gia đình. Hầu hết các cơ sở nuôi đều hoạt động độc lập, dẫn đến chi phí đầu vào (giống, thức ăn) cao do không có lợi thế về quy mô khi đàm phán. Chất lượng sản phẩm không đồng nhất, khó kiểm soát, khiến người nông dân luôn ở vị thế bất lợi, bị động và dễ bị thương lái ép giá.

Thứ hai, sự thiếu vắng các liên kết chính thức, cả liên kết ngang và liên kết dọc. Liên kết ngang (giữa các hộ nuôi) còn rất hạn chế, chủ yếu dừng lại ở việc trao đổi kinh nghiệm một cách không chính thức. Trong khi đó, liên kết dọc (giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị) gần như không tồn tại. Chuỗi cung ứng truyền thống vận hành qua nhiều lớp trung gian là thương lái, nậu vựa, vừa làm tăng chi phí sản xuất và khó khăn trong việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm.

Thứ ba, rủi ro từ nguồn cung đầu vào và thị trường đầu ra. Hiện nay, nguồn giống tôm hùm vẫn phụ thuộc nhiều vào khai thác tự nhiên và nhập khẩu không chính ngạch, dẫn đến chất lượng không ổn định, tiềm ẩn nguy cơ dịch bệnh cao. Về đầu ra, việc quá phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc (chiếm trên 95% sản lượng xuất khẩu) đã đặt ngành hàng vào tình thế rủi ro cao khi thị trường này biến động hoặc gia tăng các rào cản kỹ thuật…

Những “nút thắt” này đã kìm hãm sự phát triển bền vững của ngành tôm hùm, khiến lợi nhuận của người nông dân bấp bênh và làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế.

Để giải quyết những vấn đề trên, mô hình liên kết nuôi và tiêu tụ tôm hùm xanh được xây dựng tại xã Sông Cầu, Đắk Lắk đã được Viện Kinh tế và Quy hoạch Thủy sản triển khai và lấy Hợp tác xã Dịch vụ Tổng hợp Tôm hùm Sông Cầu (HTX) làm “hạt nhân” trung tâm. Hợp tác xã được thành lập vào tháng 1 – 2023 với 35 thành viên, với sản lượng hằng năm khoảng trên 120 tấn.

Mô hình này đã phá vỡ cấu trúc chuỗi cung ứng truyền thống bằng cách tạo ra một liên kết dọc trực tiếp, minh bạch, loại bỏ các khâu trung gian không cần thiết. Đó là, con giống được cung cấp bởi doanh nghiệp phải có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, được kiểm dịch đầy đủ; các sản phẩm phòng trị bệnh, giúp quản lý sức khỏe tôm nuôi một cách khoa học; Hợp tác xã Dịch vụ Tổng hợp Tôm hùm Sông Cầu đóng vai trò tổ chức sản xuất cho các xã viên theo một quy trình kỹ thuật thống nhất, đại diện ký kết các hợp đồng cung ứng đầu vào và bao tiêu sản phẩm; đơn vị thu mua và xuất khẩu cam kết thu mua sản phẩm của HTX, đảm bảo đầu ra ổn định; đơn vị hỗ trợ như Viện Kinh tế và Quy hoạch Thủy sản cùng các cơ quan quản lý địa phương (Sở Nông nghiệp và Môi trường Đắk Lắk, UBND xã Sông Cầu) đóng vai trò tư vấn, tập huấn, chuyển giao kỹ thuật và tạo hành lang pháp lý thuận lợi.

Cơ chế vận hành cốt lõi của mô hình là dựa trên các thỏa thuận và hợp đồng liên kết có tính pháp lý. Hợp tác xã là nơi tập hợp các hộ nuôi, là một pháp nhân kinh tế thực thụ, đủ năng lực để đàm phán bình đẳng với các doanh nghiệp lớn, bảo vệ quyền lợi cho xã viên.

Có thể nói, sau thời gian triển khai hiệu quả của mô hình này đã được khẳng định bằng những kết quả đáng ghi nhận. Đó là tỷ lệ sống của tôm hùm giống đã đạt khoảng trên 60%. Đây là điều mà người nuôi tôm hùm ở Đắk Lắk “mơ” chưa bao giờ có được, một con số có ý nghĩa sống còn trong nghề nuôi nhiều rủi ro này.

Ông Trịnh Quang Tú, Giám đốc Trung tâm tư vấn và Quy hoạch phát triển thủy sản (Viện Kinh tế và Quy hoạch Thủy sản) cho biết, mặc dù dự án mới được triển khai ở 2 địa phương nhưng bước đầu đã cho hiệu quả vượt trội. Nếu như trước đây việc mua tôm hùm giống và bán tôm thương phẩm phụ thuộc hoàn toàn vào thương lái nên người nuôi gặp rất nhiều rủi ro. Khi các hộ tham gia dự án thì có tới 98% giống tôm hùm và trên 96% tôm hùm thương phẩm được cung ứng và thu mua thông qua hệ thống thương lái địa phương. Khi tham gia dự án, năng suất nuôi bình quân đối với tôm hùm bông 39 kg/lồng và tôm hùm xanh 9,26 kg/lồng. Lợi nhuận bình quân tính trên lồng nuôi đối với tôm hùm bông và tôm hùm xanh tương ứng 17,34 triệu đồng/lồng và 7,04 triệu đồng/lồng. Bên cạnh đó, thông qua việc áp dụng đồng bộ quy trình kỹ thuật các thành viên Hợp tác xã đã cập nhật được những tiến bộ kỹ thuật mới trong sản xuất.

“Đặc biệt, khi so sánh với các hộ nuôi không tham gia mô hình liên kết, sự khác biệt càng trở nên rõ nét. Lợi nhuận của một hộ trong mô hình cao gần gấp đôi so với hộ bên ngoài (13,37 triệu đồng so với 7,04 triệu đồng). Đây là minh chứng thuyết phục nhất cho thấy sức mạnh của việc sản xuất có tổ chức và liên kết chặt chẽ”, ông Tú cho biết.

Tuy nhiên, để mô hình này có thể nhân rộng trong thời gian tới, ông Trịnh Quang Tú chia sẻ, mặc dù những kết quả ban đầu rất khả quan, mô hình liên kết nuôi và tiêu thụ tôm hùm tại Đắk Lắk vẫn là một mô hình thí điểm và còn đối mặt với nhiều thách thức. Đó là, hiện nay năng lực nội tại của Hợp tác xã, Ban quản lý Hợp tác xã còn hạn chế về trình độ quản trị, xây dựng kế hoạch kinh doanh. Nhận thức và tư duy sản xuất nhỏ lẻ của một bộ phận xã viên vẫn là một rào cản cần thời gian để thay đổi. Hiện nay, nguồn giống tôm hùm chúng ta vẫn chưa hoàn toàn chủ động được. Bên cạnh đó, việc giao, cho thuê mặt nước biển để người dân và Hợp tác xã yên tâm đầu tư sản xuất một cách hợp pháp vẫn còn chậm. Các chính sách hỗ trợ của nhà nước, như Nghị định 98/2018/NĐ-CP, dù đã có nhưng việc tiếp cận trên thực tế còn nhiều khó khăn.

Sản phẩm của mô hình liên kết tôm hùm được nuôi theo quy trình thống nhất, đảm bảo truy xuất nguồn gốc và nâng cao giá trị kinh tế

Do vậy, để nhân rộng mô hình thành công, cần một chiến lược tổng thể với sự chung tay của bốn nhà: Nhà nước cần đẩy nhanh tiến độ quy hoạch chi tiết và giao mặt nước, đồng thời hoàn thiện các chính sách hỗ trợ tín dụng, bảo hiểm rủi ro. Nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu để chủ động nguồn giống, thức ăn và các công nghệ nuôi tiên tiến. Nhà doanh nghiệp cần chủ động hơn nữa trong việc đầu tư, liên kết và chia sẻ lợi ích, rủi ro cùng nông dân. Và cuối cùng, Nhà nông cần thay đổi tư duy, tích cực tham gia vào các tổ chức kinh tế tập thể để trở thành một mắt xích chuyên nghiệp trong chuỗi giá trị.

Mô hình liên kết chuỗi giá trị tôm hùm xanh tại Đắk Lắk không chỉ là một dự án thành công mà còn là một minh chứng sống động cho hướng đi đúng đắn của ngành thủy sản. Thành công của mô hình đã chứng minh rằng, khi các mắt xích trong chuỗi giá trị được kết nối chặt chẽ trên nguyên tắc hài hòa lợi ích và minh bạch, ngành tôm hùm hoàn toàn có thể vượt qua những thách thức cố hữu để phát triển một cách hiệu quả, bền vững và nâng cao vị thế trên trường quốc tế.

https://tainguyenvamoitruong.vn/mo-hinh-lien-ket-chuoi-gia-tri-tom-hum-tai-dak-lak-loi-giai-cho-bai-toan-phat-trien-ben-vung-cid129845.html